|
 |
 |
 |
Sách Đen Về Cộng Sản
|
Đánh dấu 80 năm cách mạng tháng 10 tại Nga, một
số nhà nghiên cứu và sử gia của Pháp đă cho xuất bản tập tài liệu mang
tựa đề "Livre noir du commumisme - crimes, terreur, répression" (Sách đen về chủ nghĩa
cộng sản - tội ác, khủng bố và đàn áp)".
Quyển sách dày 848 trang, vạch
ra một cách chính xác về tội ác của cộng sản. Đây là một bức tranh đen
tối của lịch sử nhân loại, mà một trong những tác giả là ông Stéphane Courtois,
giám đốc nghiên cứu thuộc Trung Tâm Quốc Gia Nghiên Cứu về Khoa Học của
Pháp (Centre Nationnal de la Recherche Scientifique), cho rằng cần phải vạch ra để trả
lại danh dự cho những người đă chết v́ chủ nghĩa cộng sản.
Bằng những con số thống kê, các tác giả của tập tài liệu này đă đưa
ra con số nạn nhân của cộng sản 85 triệu người. Có nghĩa là trung b́nh
mỗi năm hơn 1 triệu người là nạn nhân của cộng sản trong 80 năm
qua. Liên Minh Việt Nam Tự Do xin được trích dịch một số đoạn trong
tập sách này, đặc biệt là những đoạn có liên quan đến Việt Nam.
BÀI
"Les Crimes du Communisme" (Tội ác của Cộng Sản), tác giả Stéphane Courtois :
Trang
12 : Cộng sản mà chúng ta nói đến ở đây không nằm trong bầu trời của
những tư tưởng. Mà đây là cộng sản thực tế, đă xảy ra ở
một thời kỳ nhận định, tại những quốc gia có thật, được
thể hiện qua những lănh tụ nổi tiếng Lénine, Staline, Mao, Hồ Chí Minh, Castro,
v.v...
...Vượt lên trên mức độ tội ác cá nhân, hoặc tàn sát cục bộ
địa phương theo hoàn cảnh, các chế độ cộng sản củng cố
quyền hành bằng cách nâng việc tàn sát quần chúng lên hàng chính sách cai trị... Đúng là sau
một thời gian ngắn hay dài vài năm ở Đông Âu đến vài chục năm ở Liên
Xô và Trung Quốc cường độ của sự khủng bố có bớt đi, chế
độ tự ổn định bằng cách quản lư sự đàn áp thường nhật,
sự kiểm duyệt mọi trao đổi, kiểm soát biên giới, trục xuất người
ly khai. Nhưng "kư ức về khủng bố" tiếp tục làm cho tin tưởng rằng
sẽ có đàn áp, và điều này rất hiệu nghiệm. Không một trường hợp
nào thoát khỏi qui luật đó : Trung Quốc, Bắc Hàn, và ngay cả Việt Nam của "Bác
Hồ đáng yêu" hay Cuba của Fidel Castro rực rỡ...
Trang 14 : ... một bản sơ
kết với những con số ước lượng tối thiểu c̣n phải làm cho
chính xác hơn, nhưng cũng cho thấy cái tầm mức của vấn đề và tính
nghiêm trọng của nó :
Liên Xô, 20 triệu người, Trung Quốc, 65 triệu người
chết, Việt Nam, 1 triệu người chết,...
Trang 38 : Bổn phận ghi nhớ
và ghi vào lịch sử (tội ác của cộng sản), đang như ngọn đèn leo lét
dễ bị tắt ở những nước cộng sản c̣n cầm quyền như Trung
Quốc, Bắc Hàn, Cuba, Lào, Việt Nam.
Trang 27 : Người ta biết ǵ về những
tội ác của cộng sản ? ...
Ở đây người ta không khỏi ngạc
nhiên v́ một sự đối chọi rơ rệt. Nhiều nhà nghiên cứu đă t́m ṭi mấy
chục năm nay về vấn đề (tội ác của Đức quốc xă). Hằng ngàn
sách, hằng chục phim đă được dành cho nó...
Vậy mà ta không hề thấy
tội ác của cộng sản được nghiên cứu giống như thế. Trong khi
tên của Himmler, Eichman được cả thế giới biết đến như là biểu
tượng của sự dă man trong thời đại mới, ít người biết đến
tên của Djerzinski, Iagoda hay Iejov. C̣n Lénine, Mao, Hồ Chí Minh và ngay cả Staline, lạ lùng thay,
vẫn c̣n được nhiều người tôn sùng...
Bài "Le Komintern à l'Action" (Quốc
Tế Cộng Sản hành động), tác giả Stéphane Courtois và Jean-Louis Panné :
Trang 341
: Tại Đông Dương, lúc đầu, t́nh thế có khác. Từ năm 1933, tờ-rốt-kít
(đệ tứ) của nhóm "Tranh Đấu" và cộng sản hoạt động chung. ảnh
hưởng của tờ-rốt-kít đặc biệt mạnh ở phía nam bán đảo
(Đông Dương). Năm 1937, một chỉ thị của Jacques Duclos cấm đảng cộng
sản Đông Dương tiếp tục hợp tác với các thành viên của nhóm "Tranh Đấu".
Trong những tháng sau ngày Nhật bại trận, một nhánh tờ-rốt-kít khác Liên Minh Cộng
Sản Quốc Tế (LMCSQT) gây được một ảnh hưởng khiến các lănh
tụ cộng sản lo lắng. Tháng 9/1945, khi quân Anh vừa đến nơi, LMCSQT chỉ
trích nặng nề sự đón tiếp ôn hoà của mặt trận Việt Minh do Hồ Chí
Minh thành lập tháng 5 năm 1941. Ngày 14 tháng 9/1945, Việt Minh tung một chiến dịch lớn
nhắm vào cán bộ tờ-rốt-kít cấp cao mà không gặp phản ứng. Nhóm này bị
bắt và hầu hết đều bị giết sau đó... Giai đoạn hai của chiến
dịch là : Việt Minh quay qua tấn công các thành viên cơ sở của nhóm "Tranh Đấu".
Bị giam tại Bến Súc, họ đều bị (Việt Minh) giết khi quân Pháp tiến
gần đến nơi. Tạ Thu Thâu, lănh tụ lịch sử của phong trào này, bị
bắt một thời gian sau đó, ông bị hành quyết tháng Hai 1946. Hồ Chí Minh đă chẳng
từng viết rằng : những người tờ-rốt-kít "là bọn phản bội
và bọn gián điệp khốn kiếp nhất" đó hay sao ?
Bài "Chine : une Longue Marche
dans la Nuit" (Trung Quốc, Vạn Lư Trường Chinh trong đêm tối), tác giả : Jean-Louis
Margolin.
Trang 505 : Từ ngày phát hành hồi kư của Hoàng Văn Hoan (trốn qua và theo Bắc
Kinh), người ta biết rằng từ 1950 cho đến hiệp định Genève 1954,
rất nhiều cố vấn Tàu điều khiển quân đội và hành chánh của Việt
Minh, và khoảng ba mươi ngàn lính của Bắc Kinh, nhất là công binh, thay thế quân đội
Bắc Việt phải đi đánh nhau trong miền Nam từ 1965 đến 1970. Tướng
Vơ Nguyên Giáp, người thắng trận Điện Biên Phủ, vào năm 1964, đă nh́n nhận
một cách gián tiếp sự đóng góp của Trung Quốc : "Từ năm 1950 trở đi,
sau khi Trung Quốc thắng trận, quân đội và nhân dân ta đă học được
nhiều bài học quí báu từ quân đội nhân dân giải phóng Trung Quốc. Ta đă được
giáo dục bởi tư tưởng quân sự của Mao chủ tịch. Đó chính là nhân tố
quan trọng đă giúp quân đội ta trưởng thành và góp phần vào những thắng
lợi liên tiếp của ta ". Để đền đáp, đảng cộng sản Việt
Nam (lúc ấy mang tên đảng Lao Động), ghi vào điều lệ của ḿnh từ năm
1951 : "Đảng Lao Động mang ơn học thuyết Mác, Ăng ghen, Lê nin, Xta lin. Và mang ơn
tư tưởng Mao Trạch Đông ứng dụng vào thực tế cách mạng Việt Nam,
xem như là cơ sở lư luận của tư tưởng, là kim chỉ nam của mọi
hành động của ḿnh". Trung tâm hệ thống chính trị Việt Nam là chỉ đạo
quần chúng và cải tạo. "Cheng feng" (cải tạo phong cách lao động) được
h́nh thành ở Vân Nam, đổi ra tiếng Việt "chỉnh huấn", là khái niệm chỉ
đạo của các cuộc thanh trừng tàn bạo những năm 50.
Bài "Vietnam : les
Impasses d'un Communisme de Guerre" (Việt Nam : những ngơ cụt của một chế độ
cộng sản chủ chiến), tác giả : Jean-Louis Margolin.
Trang 617 : "Chúng ta sẽ biến
nhà tù thành trường học !" Lê Duẫn, Tổng Thư Kư đảng cộng sản Việt
Nam.
Ngay ngày hôm nay, nh́n nhận những tác hại của cộng sản Việt Nam vẫn
là một việc khó làm đối với nhiều người Âu châu. Những người
này, khi họ hoạt động chống những tác hại khác của chủ nghĩa thực
dân Pháp, của đế quốc Mỹ , trên thực tế họ đă về phe với đảng
cộng sản Việt Nam (ĐCSVN). Từ đó đến việc nghĩ rằng ĐCSVN thể
hiện nguyện vọng của một dân tộc, rằng nó theo đuổi mục tiêu xây
dựng một xă hội nhân ái và công bằng, chỉ có một bước ngắn. Vẻ
xuề x̣a của Hồ Chí Minh là người sáng lập ra và điều khiển nó đến
năm 1969, sự kiên cường của những chiến sĩ của nó và sự tuyên truyền
khôn khéo bằng tư tưởng dân chủ và ḥa b́nh ở nước ngoài... giúp người
ta làm cái bước ấy. Khó có cảm t́nh với Kim Nhật Thành và cái chế độ cứng
ngắc của y bao nhiêu, th́ càng dễ ưa sự khắc khổ mà tươi cười
của mấy quan đỏ Hà Nội bấy nhiêu, và dễ chê cái chế độ thối
nát Sài G̣n của Nguyễn Văn Thiệu (1965-1975). Người ta muốn tin tưởng rằng
ĐCSVN không là một đảng xta-li-niêng khác, rằng trước nhất nó mang tính dân tộc
chủ nghĩa, và nó dùng nhăn hiệu cộng sản để nhận viện trợ của
Tàu và Liên Xô.
Không có vấn đề phủ nhận ḷng yêu nước của những
người Việt Nam cộng sản, họ đă chiến đấu với một quyết
tâm hiếm có trong nửa thế kỷ chống Pháp, Nhật, Mỹ và Tàu : ở Việt Nam
buộc tội "phản quốc" hoặc "Việt gian" thường có ư nghĩa giống như
tội "phản cách mạng" ở Trung Quốc. Nhưng thật ra th́ không có nơi nào mà chủ
nghĩa cộng sản lại đối chọi với chủ nghĩa dân tộc cả,
kể cả nhủ nghĩa dân tộc quá khích, bài ngoại. Thế nhưng, chỉ cần
không tự che lấy mắt ḿnh, người ta sẽ rất dễ nhận thấy một
chủ nghĩa tôn thờ xtalin - mao rất hạ tiện núp dưới lớp vẹc-ni của
một sự nhất trí toàn dân.
Đảng cộng sản Đông Dương non trẻ gặp
nhiều khó khăn lúc ban đầu. Mới vừa thành lập xong vào năm 1930, qua một
vụ án ồn ào nó đă phải đương đầu với hậu quả của
hành vi sai quấy của một số đảng viên ở Sài G̣n. Vô đảng từ 1928,
bị ảnh hưởng của những hội kín và của những hành động khủng
bố yêu nước, họ đă kêu án và hành quyết, rồi thiêu xác một đồng chí,
chỉ v́ người này đă tán tỉnh một nữ đảng viên. Năm 1931 nó lao một
cách khá điên cuồng vào việc xây dựng "xô viết nông dân Nghệ Tỉnh" (bắt chước
kiểu Quảng Tây, trong khi Việt Nam không có đất mênh mông như Trung Quốc...), lập
tức nó bắt tay vào việc giết hằng trăm địa chủ ; một phần
dân chúng bỏ trốn, làm cớ cho quân lính thực dân trở lại một cách mau lẹ và
hùng hỗ hơn. Khi đảng cộng sản Đông Dương, ẩn ḿnh dưới "Mặt
Trận Thống Nhứt" Việt Minh, dám vũ trang chiến đấu ở b́nh diện lớn
mùa xuân 1945, nó đánh vào "Việt gian" và "phản động" (thường là bao gồm tất
cả công chức tại chỗ), hơn là đánh vào quân chiếm đóng Nhật, vũ trang
đầy đủ hơn ; một người trách nhiệm của họ đề xướng
chiến dịch ám sát để "thúc đẩy phong trào đi lên nhanh chóng". Địa chủ
và quan lại cũng là những đối tượng được tuyển chọn ; nhiều
"ṭa án nhân dân" được dựng lên để xử, tuyên án và tịch thu tài sản của
họ. Nhưng khủng bố c̣n nhằm cả vào các đối thủ của đảng
cộng sản Đông Dương đang yếu kém, với chỉ có khoảng năm ngàn đảng
viên : nên cần phải dọn dẹp sạch sẽ một cách thật mau lẹ, để
chiếm giữ một ḿnh vai tṛ lănh đạo phong trào toàn dân. Đại Việt, đảng
quốc gia thân Nhật, bị ruồng bố dă man : cơ sở Việt Minh ở Sơn Tây
từng xin Hà Nội một máy phát điện và một chuyên viên để tra khảo "phản
quốc" hàng loạt.
Cách mạng tháng Tám đưa Hồ Chí Minh lên nắm quyền khi
Nhật đầu hàng, và đảng cộng sản Đông Dương làm ṇng cốt của
Nhà Nước mới. Họ lợi dụng mấy tuần lễ trước khi quân đồng
minh đến (Anh và Pháp trong Nam, Tàu ngoài Bắc) để gia tăng thanh toán đối thủ.
Các người ôn ḥa chủ trương lập hiến (đứng đầu là Bùi Quang Chiêu)
và giáo phái Ḥa Hảo (kể cả người sáng lập ra đạo Huỳnh Phú Sổ...)
không bị bỏ quên, không hơn ǵ nhà trí thức lớn và chính trị gia thiên hữu Phạm
Quỳnh. Nhưng nhóm tờ rốt kít, ít nhưng năng động ở vùng Sài G̣n, mới
là nạn nhân chính của cuộc tàn sát : lănh tụ của họ, Tạ Thu Thâu, bị bắt
vào tháng Chín tại Quảng Ngăi, đă bị các cuộc khủng bố tiêu diệt đặc
biệt càn quét, và một lănh đạo cộng sản vùng Sài G̣n, Trần Văn Giàu, được
đào tạo ở Moscou, bao che đợt khủng bố ấy, mặc dầu về sau
này ông ta chối căi trách nhiệm. Ngày 2 tháng 9 ông tuyên bố : "Nhiều tên phản quốc đang
tập trung để phục vụ kẻ thù[...] cần phải trừng trị bọn gây
rối tại nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa, chúng tạo cớ cho kẻ thù
xâm lược chúng ta". Một bài báo Việt Minh ở Hà Nội ngày 29 tháng 9 kêu gọi thành
lập tại mỗi khu phố hoặc mỗi làng những "ban thanh trừng việt gian".
Hằng chục, có thể hằng trăm tờ rốt kít bị rượt bắt và hạ
sát ; số khác đang tham gia bảo vệ Sài G̣n chống lại người Anh và Pháp vào tháng
8, bị cắt lương thực và súng đạn : phần lớn sẽ bị tử
thương. Ngay từ 25 tháng 8 một cơ cấu An Ninh Nhà Nước được tổ
chức theo kiểu mẫu Xô Viết tại Sài G̣n, và các nhà tù, mới vừa được
làm trống lại đầy ắp trở lại ; Việt Minh lập ra một "Ủy ban
ám sát xung phong" đi rảo ngoài đường ; ủy ban này tuyển nhiều phần tử
lưu manh, và cầm đầu vụ khủng bố bài Pháp ngày 25 tháng 9, bỏ lại nhiều
xác chết bị chặt chân tay. Có khi hễ là vợ Tây th́ bị hạ sát ngay, dù người
ta nói đó là hành động của "Việt Minh giả". Trong hai tháng 8 và 9, có đến hằng
ngàn vụ ám sát, hàng chục ngàn vụ bắt giam ; nhiều trường hợp là do sáng kiến
của địa phương, nhưng chắc chắn là bộ máy trung ương có thúc đẩy
đằng sau ; về sau này đảng cộng sản công khai hối tiếc rằng lúc
ấy đă không giết được nhiều "kẻ thù" hơn. Ở ngoài Bắc, phần
đất được đảng cộng sản kiểm soát cho đến khi bùng nổ
chiến tranh Đông Dương tháng 12 năm 1946, trại giam và công an chính trị đă được
thiết lập, và Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa (VNDCCH) trên thực tế được
lănh đạo bởi một đảng duy nhất. Những người quốc gia cấp
tiến Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ, thành lập năm 1927), tranh chấp kịch liệt
với Việt Minh có đổ máu ở cả hai phe, đă bị diệt từ tháng 7, trong
khi mà họ cũng đă từng bị chính quyền thực dân đàn áp dữ dội như
ĐCSĐD, nhất là sau khi họ tổ chức cuộc nổi dậy Yên Bái.
Bạo lực
đàn áp của cộng sản sau này sẽ biến thành một cuộc kháng chiến lâu dài
chống lại Pháp. Nhiều nhân chứng đă nói đến các trại giam tù binh lính viễn
chinh Pháp. Nhiều người bị hành hạ và bị chết trong đó : trong số 20.000,
chỉ có 9.000 sống sót khi hiệp định Genève (tháng 7/1954) cho phóng thích họ. Những
bịnh dịch đáng sợ của vùng núi Đông Dương đă làm chết vô số tù bị
ban quản trại Việt Minh cắt thuốc men và vệ sinh, nhiều khi bỏ đói. Đă
có nhiều vụ đánh đập, có cả tra tấn thật sự, nhưng lính Pháp rất
có ích lợi : được xem như là "tội phạm chiến tranh", họ bị buộc
phải tự thú và hối cải, rồi phải suy nghĩ theo những người giam
họ, mục đích là dùng họ để tuyên truyền chống lại phe của chính
họ. Lối "cải tạo" theo kiểu Tàu này (Mao gởi sang hằng loạt cố vấn
từ năm 1950), bằng những buổi tuyên truyền dồn dập, trong đó "học
viên" phải tham gia tích cực, bằng cách gây chia rẽ giữa "phản động" và những
người tù "tiến bộ", bằng lời hứa (kể cả hứa tha), đă thành
công không ít, nhờ sự mệt mỏi thể xác và tinh thần của người bị
giam. Kết quả này cũng là do lính Pháp lúc ấy được đối xử tồi
tệ, nhưng vẫn khá hơn đối với người bản xứ về sau này.
Khi chiến thắng có vẻ đă gần kề, vào tháng 12/1953, cải cách ruộng
đất được tung ra tại các vùng đă giải phóng. Trước cuối năm
1954, nó lan rộng ra toàn lănh thổ ở phía Bắc vĩ tuyến 17, vùng được hiệp
định Genève giao cho VNDCCH ; cải cách ruộng đất chỉ chấm dứt vào năm
1956. Nhịp độ và các mục tiêu của nó giống như cải cách ruộng đất
Trung Quốc từ năm 1946 đến 1952 : để thắt chặt mối quan hệ
giữa đảng tái xuất hiện vào năm 1951 và trung-bần nông, chuẩn bị phát
triển kinh tế bằng cách tăng cường sự kiểm soát của Nhà Nước,
và tiêu diệt các nhóm chống cộng đang thai nghén. Mặc dù hơn cả bên Tàu, giới
thượng lưu nông thôn đă từng v́ tinh thần dân tộc cao độ mà ồ ạt
ủng hộ Việt Minh. Nhưng phương pháp, vừa tàn ác vừa hiếu sát, vẫn
là những thứ đă được sáng chế ra bên nước láng giềng to lớn
phía Bắc : trong mỗi làng, các cán bộ hăng say ra sức "khích" các nông dân được
xếp hạng bần và trung, việc vận động đôi khi gặp khó khăn (có lúc
phải nhờ đoàn hát giúp vào), tiếp theo là phiên ṭa "tố khổ" nạn nhân và bắt
đền tội, thường nạn nhân được chọn lựa một cách vơ đoán
(có ra chỉ tiêu để hoàn thành : 4 đến 5 % dân số cái 5 % muôn thuở của chủ
nghĩa Mao !), và sau cùng là tử h́nh hoặc ít ra cũng tù giam và tịch biên tài sản ; cả
gia tộc phải bị ô nhục lây như bên Trung Quốc. Việc không kể đến
"công lao chính trị" chứng tỏ tính giáo điều tàn nhẫn, đồng thời chứng
tỏ ư muốn áp đặt độc tài của đảng CSVN. Một bà địa chủ
và nhà buôn giàu, có hai con theo Việt Minh từ đầu, từng được tặng danh
hiệu "có công với cách mạng", đă bị "đấu" hai lần, nhưng tá điền
không mấy sốt sắng. Lập tức "một nhóm từng thực tập bên Tàu được
đưa đến, và lật ngược được t́nh thế. [...] người ta
tố bà Long đă giết ba tá điền trước năm 1945, đă ngủ với quan
sứ Tây, đă liếm gót Tây và đă làm gián điệp cho chúng. Mệt lă v́ bị giam lâu
ngày, bà ta thú tội hết và bị kêu án tử h́nh. Con trai bà đang ở Trung Quốc được
triệu về, lột chức, lột huy chương và kêu án hai mươi năm". Cũng
như bên Tàu, bị buộc tội tức là đă phạm tội, đảng không thể
sai lầm. Vậy giữ đúng vai tuồng mà người ta gán cho, là ít tai hại hơn
cả : "Giết cha, giết mẹ rồi thú nhận, vẫn nhẹ tội hơn không phạm
ǵ cả và không thú nhận".
Bạo lực được thúc đẩy và bùng nổ
đến độ kinh hoàng. Tư tưởng "hận thù" đối với địch
giai cấp hay người nước ngoài - được nhai đi nhai lại : theo Lê Đức
Thọ, sau này được giải thưởng ḥa b́nh cùng với Henry Kissinger, th́ "nếu
muốn nông dân cầm súng, trước hết phải khơi dậy nơi họ ḷng căm
thù". Tháng giêng 1956, cơ quan chính thức của đảng, tờ Nhân Dân, viết : "Giai cấp
địa chủ sẽ không bao giờ nằm yên khi nó chưa bị tiêu diệt". Cũng
như ở bên kia biên giới phía Bắc, phương châm là : "Thà giết lầm mười
người vô tội, hơn là để sống sót một kẻ thù". Tra tấn được
dùng rộng răi, điều mà Hồ lo lắng cuối năm 1954 : "Nhiều cán bộ vẫn
c̣n (sic) phạm sai lầm là dùng cực h́nh tra tấn. Đó là một phương pháp dă man mà bọn
đế quốc, tư bản và phong kiến dùng để đàn áp quần chúng và áp đảo
cách mạng [...] Trong giai đoạn hiện nay (lại sic) triệt để cấm dùng cực
h́nh tra tấn".
Bài "Les Crimes du Communisme" (Tội ác của Cộng Sản), tác giả Stéphane
Courtois :
Trang 12 :
Cộng sản mà chúng ta nói đến ở đây không nằm
trong bầu trời của những tư tưởng. Mà đây là cộng sản thực
tế, đă xảy ra ở một thời kỳ nhận định, tại những quốc
gia có thật, được thể hiện qua những lănh tụ nổi tiếng Lénine, Staline,
Mao, Hồ Chí Minh, Castro, v.v...
...Vượt lên trên mức độ tội ác cá nhân, hoặc
tàn sát cục bộ địa phương theo hoàn cảnh, các chế độ cộng sản
củng cố quyền hành bằng cách nâng việc tàn sát quần chúng lên hàng chính sách cai trị...
Đúng là sau một thời gian ngắn hay dài vài năm ở Đông Ấu đến vài chục
năm ở Liên Xô và Trung Quốc cường độ của sự khủng bố có bớt
đi, chế độ tự ổn định bằng cách quản lư sự đàn áp thường
nhật, sự kiểm duyệt mọi trao đổi, kiểm soát biên giới, trục xuất
người ly khai. Nhưng "kư ức về khủng bố" tiếp tục làm cho tin tưởng
rằng sẽ có đàn áp, và điều này rất hiệu nghiệm. Không một trường
hợp nào thoát khỏi qui luật đó : Trung Quốc, Bắc Hàn, và ngay cả Việt Nam của
"Bác Hồ đáng yêu" hay Cuba của Fidel Castro rực rỡ...
Trang 14 :
... một
bản sơ kết với những con số ước lượng tối thiểu c̣n phải
làm cho chính xác hơn, nhưng cũng cho thấy cái tầm mức của vấn đề
và tính nghiêm trọng của nó :
Liên Xô, 20 triệu người, Trung Quốc, 65 triệu
người chết, Việt Nam, 1 triệu người chết,...
Trang 38 :
Bổn
phận ghi nhớ và ghi vào lịch sử (tội ác của cộng sản), đang như
ngọn đèn leo lét dễ bị tắt ở những nước cộng sản c̣n cầm
quyền như Trung Quốc, Bắc Hàn, Cuba, Lào, Việt Nam.
Trang 27 :
Người
ta biết ǵ về những tội ác của cộng sản ? ...
Ở đây người
ta không khỏi ngạc nhiên v́ một sự đối chọi rơ rệt. Nhiều nhà nghiên
cứu đă t́m ṭi mấy chục năm nay về vấn đề (tội ác của Đức
quốc xă). Hằng ngàn sách, hằng chục phim đă được dành cho nó...
Vậy
mà ta không hề thấy tội ác của cộng sản được nghiên cứu giống
như thế. Trong khi tên của Himmler, Eichman được cả thế giới biết
đến như là biểu tượng của sự dă man trong thời đại mới,
ít người biết đến tên của Djerzinski, Iagoda hay Iejov. C̣n Lénine, Mao, Hồ Chí Minh
và ngay cả Staline, lạ lùng thay, vẫn c̣n được nhiều người tôn sùng...
Bài "Le Komintern à l'Action" (Quốc Tế Cộng Sản hành động), tác giả Stéphane
Courtois và Jean-Louis Panné :
Trang 341 :
Tại Đông Dương, lúc đầu, t́nh thế
có khác. Từ năm 1933, tờ-rốt-kít (đệ tứ) của nhóm "Tranh Đấu" và
cộng sản hoạt động chung. Ảnh hưởng của tờ-rốt-kít đặc
biệt mạnh ở phía nam bán đảo (Đông Dương). Năm 1937, một chỉ
thị của Jacques Duclos cấm đảng cộng sản Đông Dương tiếp tục
hợp tác với các thành viên của nhóm "Tranh Đấu". Trong những tháng sau ngày Nhật
bại trận, một nhánh tờ-rốt-kít khác Liên Minh Cộng Sản Quốc Tế (LMCSQT)
gây được một ảnh hưởng khiến các lănh tụ cộng sản lo lắng.
Tháng 9/1945, khi quân Anh vừa đến nơi, LMCSQT chỉ trích nặng nề sự đón
tiếp ôn hoà của mặt trận Việt Minh do Hồ Chí Minh thành lập tháng 5 năm 1941.
Ngày 14 tháng 9/1945, Việt Minh tung một chiến dịch lớn nhắm vào cán bộ tờ-rốt-kít
cấp cao mà không gặp phản ứng. Nhóm này bị bắt và hầu hết đều bị
giết sau đó... Giai đoạn hai của chiến dịch là : Việt Minh quay qua tấn
công các thành viên cơ sở của nhóm "Tranh Đấu". Bị giam tại Bến Súc, họ
đều bị (Việt Minh) giết khi quân Pháp tiến gần đến nơi. Tạ
Thu Thâu, lănh tụ lịch sử của phong trào này, bị bắt một thời gian sau đó,
ông bị hành quyết tháng Hai 1946. Hồ Chí Minh đă chẳng từng viết rằng : những
người tờ-rốt-kít "là bọn phản bội và bọn gián điệp khốn kiếp
nhất" đó hay sao ?
Bài "Chine : une Longue Marche dans la Nuit" (Trung Quốc, Vạn Lư Trường
Chinh trong đêm tối), tác giả : Jean-Louis Margolin.
Trang 505 :
ừ ngày phát hành hồi
kư của Hoàn Văn Hoan (trốn qua và theo Bắc Kinh), người ta biết rằng từ
1950 cho đến hiệp định Genève 1954, rất nhiều cố vấn Tàu điều
khiển quân đội và hành chánh của Việt Minh, và khoảng ba mươi ngàn lính của
Bắc Kinh, nhất là công binh, thay thế quân đội Bắc Việt phải đi đánh
nhau trong miền Nam từ 1965 đến 1970. Tướng Vơ Nguyên Giáp, người thắng
trận Điện Biên Phủ, vào năm 1964, đă nh́n nhận một cách gián tiếp sự
đóng góp của Trung Quốc : "Từ năm 1950 trở đi, sau khi Trung Quốc thắng
trận, quân đội và nhân dân ta đă học được nhiều bài học quí báu từ
quân đội nhân dân giải phóng Trung Quốc. Ta đă được giáo dục bởi tư
tưởng quân sự của Mao chủ tịch. Đó chính là nhân tố quan trọng đă
giúp quân đội ta trưởng thành và góp phần vào những thắng lợi liên tiếp
của ta". Để đền đáp, đảng cộng sản Việt Nam (lúc ấy mang
tên đảng Lao Động), ghi vào điều lệ của ḿnh từ năm 1951 : "Đảng
Lao Động mang ơn học thuyết Mác, ăng ghen, Lê nin, Xta lin. Và mang ơn tư tưởng
Mao Trạch Đông ứng dụng vào thực tế cách mạng Việt Nam, xem như là cơ
sở lư luận của tư tưởng, là kim chỉ nam của mọi hành động của
ḿnh". Trung tâm hệ thống chính trị Việt Nam là chỉ đạo quần chúng và cải
tạo. "Cheng feng" (cải tạo phong cách lao động) được h́nh thành ở Vân Nam,
đổi ra tiếng Việt "chỉnh huấn", là khái niệm chỉ đạo của các
cuộc thanh trừng tàn bạo những năm 50.
Bài "Vietnam : les Impasses d'un Communisme de
Guerre" (Việt Nam : những ngơ cụt của một chế độ cộng sản chủ
chiến), tác giả : Jean-Louis Margolin.
Trang 617 :
Ngay ngày hôm nay, nh́n nhận những
tác hại của cộng sản Việt Nam vẫn là một việc khó làm đối với
nhiều người Ấu châu. Những người này, khi họ hoạt động chống
những tác hại khác của chủ nghĩa thực dân Pháp, của đế quốc Mỹ
, trên thực tế họ đă về phe với đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN).
Từ đó đến việc nghĩ rằng ĐCSVN thể hiện nguyện vọng của
một dân tộc, rằng nó theo đuổi mục tiêu xây dựng một xă hội nhân ái và
công bằng, chỉ có một bước ngắn. Vẻ xuề x̣a của Hồ Chí Minh là
người sáng lập ra và điều khiển nó đến năm 1969, sự kiên cường
của những chiến sĩ của nó và sự tuyên truyền khôn khéo bằng tư tưởng
dân chủ và ḥa b́nh ở nước ngoài... giúp người ta làm cái bước ấy. Khó
có cảm t́nh với Kim Nhật Thành và cái chế độ cứng ngắc của y bao nhiêu,
th́ càng dễ ưa sự khắc khổ mà tươi cười của mấy quan đỏ
Hà Nội bấy nhiêu, và dễ chê cái chế độ thối nát Sài G̣n của Nguyễn Văn
Thiệu (1965-1975). Người ta muốn tin tưởng rằng ĐCSVN không là một đảng
xta-li-niêng khác, rằng trước nhất nó mang tính dân tộc chủ nghĩa, và nó dùng nhăn
hiệu cộng sản để nhận viện trợ của Tàu và Liên Xô.
Không có vấn
đề phủ nhận ḷng yêu nước của những người Việt Nam cộng
sản, họ đă chiến đấu với một quyết tâm hiếm có trong nửa thế
kỷ chống Pháp, Nhật, Mỹ và Tàu : ở Việt Nam buộc tội "phản quốc"
hoặc "Việt gian" thường có ư nghĩa giống như tội "phản cách mạng"
ở Trung Quốc. Nhưng thật ra th́ không có nơi nào mà chủ nghĩa cộng sản
lại đối chọi với chủ nghĩa dân tộc cả, kể cả nhủ nghĩa
dân tộc quá khích, bài ngoại. Thế nhưng, chỉ cần không tự che lấy mắt
ḿnh, người ta sẽ rất dễ nhận thấy một chủ nghĩa tôn thờ xtalin
- mao rất hạ tiện núp dưới lớp vẹc-ni của một sự nhất trí
toàn dân.
Đảng cộng sản Đông Dương non trẻ gặp nhiều khó khăn
lúc ban đầu. Mới vừa thành lập xong vào năm 1930, qua một vụ án ồn ào
nó đă phải đương đầu với hậu quả của hành vi sai quấy của
một số đảng viên ở Sài G̣n. Vô đảng từ 1928, bị ảnh hưởng
của những hội kín và của những hành động khủng bố yêu nước,
họ đă kêu án và hành quyết, rồi thiêu xác một đồng chí, chỉ v́ người
này đă tán tỉnh một nữ đảng viên. Năm 1931 nó lao một cách khá điên cuồng
vào việc xây dựng "xô viết nông dân Nghệ Tỉnh" (bắt chước kiểu Quảng
Tây, trong khi Việt Nam không có đất mênh mông như Trung Quốc...), lập tức nó bắt
tay vào việc giết hằng trăm địa chủ ; một phần dân chúng bỏ trốn,
làm cớ cho quân lính thực dân trở lại một cách mau lẹ và hùng hỗ hơn. Khi đảng
cộng sản Đông Dương, ẩn ḿnh dưới "Mặt Trận Thống Nhứt"
Việt Minh, dám vũ trang chiến đấu ở b́nh diện lớn mùa xuân 1945, nó đánh
vào "Việt gian" và "phản động" (thường là bao gồm tất cả công chức
tại chỗ), hơn là đánh vào quân chiếm đóng Nhật, vũ trang đầy đủ
hơn ; một người trách nhiệm của họ đề xướng chiến dịch
ám sát để "thúc đẩy phong trào đi lên nhanh chóng". Địa chủ và quan lại
cũng là những đối tượng được tuyển chọn ; nhiều "ṭa án
nhân dân" được dựng lên để xử, tuyên án và tịch thu tài sản của họ.
Nhưng khủng bố c̣n nhằm cả vào các đối thủ của đảng cộng
sản Đông Dương đang yếu kém, với chỉ có khoảng năm ngàn đảng
viên : nên cần phải dọn dẹp sạch sẽ một cách thật mau lẹ, để
chiếm giữ một ḿnh vai tṛ lănh đạo phong trào toàn dân. Đại Việt, đảng
quốc gia thân Nhật, bị ruồng bố dă man : cơ sở Việt Minh ở Sơn Tây
từng xin Hà Nội một máy phát điện và một chuyên viên để tra khảo "phản
quốc" hàng loạt.
Cách mạng tháng Tám đưa Hồ Chí Minh lên nắm quyền khi
Nhật đầu hàng, và đảng cộng sản Đông Dương làm ṇng cốt của
Nhà Nước mới. Họ lợi dụng mấy tuần lễ trước khi quân đồng
minh đến (Anh và Pháp trong Nam, Tàu ngoài Bắc) để gia tăng thanh toán đối thủ.
Các người ôn ḥa chủ trương lập hiến (đứng đầu là Bùi Quang Chiêu)
và giáo phái Ḥa Hảo (kể cả người sáng lập ra đạo Huỳnh Phú Sổ...)
không bị bỏ quên, không hơn ǵ nhà trí thức lớn và chính trị gia thiên hữu Phạm
Quỳnh. Nhưng nhóm tờ rốt kít, ít nhưng năng động ở vùng Sài G̣n, mới
là nạn nhân chính của cuộc tàn sát : lănh tụ của họ, Tạ Thu Thâu, bị bắt
vào tháng Chín tại Quảng Ngăi, đă bị các cuộc khủng bố tiêu diệt đặc
biệt càn quét, và một lănh đạo cộng sản vùng Sài G̣n, Trần Văn Giàu, được
đào tạo ở Moscou, bao che đợt khủng bố ấy, mặc dầu về sau
này ông ta chối căi trách nhiệm. Ngày 2 tháng 9 ông tuyên bố : "Nhiều tên phản quốc đang
tập trung để phục vụ kẻ thù[...] cần phải trừng trị bọn gây
rối tại nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa, chúng tạo cớ cho kẻ thù
xâm lược chúng ta". Một bài báo Việt Minh ở Hà Nội ngày 29 tháng 9 kêu gọi thành
lập tại mỗi khu phố hoặc mỗi làng những "ban thanh trừng việt gian".
Hằng chục, có thể hằng trăm tờ rốt kít bị rượt bắt và hạ
sát ; số khác đang tham gia bảo vệ Sài G̣n chống lại người Anh và Pháp vào tháng
8, bị cắt lương thực và súng đạn : phần lớn sẽ bị tử
thương. Ngay từ 25 tháng 8 một cơ cấu An Ninh Nhà Nước được tổ
chức theo kiểu mẫu Xô Viết tại Sài G̣n, và các nhà tù, mới vừa được
làm trống lại đầy ắp trở lại ; Việt Minh lập ra một "Ủy ban
ám sát xung phong" đi rảo ngoài đường ; ủy ban này tuyển nhiều phần tử
lưu manh, và cầm đầu vụ khủng bố bài Pháp ngày 25 tháng 9, bỏ lại nhiều
xác chết bị chặt chân tay. Có khi hễ là vợ Tây th́ bị hạ sát ngay, dù người
ta nói đó là hành động của "Việt Minh giả". Trong hai tháng 8 và 9, có đến hằng
ngàn vụ ám sát, hàng chục ngàn vụ bắt giam ; nhiều trường hợp là do sáng kiến
của địa phương, nhưng chắc chắn là bộ máy trung ương có thúc đẩy
đằng sau ; về sau này đảng cộng sản công khai hối tiếc rằng lúc
ấy đă không giết được nhiều "kẻ thù" hơn. Ở ngoài Bắc, phần
đất được đảng cộng sản kiểm soát cho đến khi bùng nổ
chiến tranh Đông Dương tháng 12 năm 1946, trại giam và công an chính trị đă được
thiết lập, và Việt Nam Dân Chủ Cộng Ḥa (VNDCCH) trên thực tế được
lănh đạo bởi một đảng duy nhất. Những người quốc gia cấp
tiến Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ, thành lập năm 1927), tranh chấp kịch
liệt với Việt Minh có đổ máu ở cả hai phe, đă bị diệt từ tháng
7, trong khi mà họ cũng đă từng bị chính quyền thực dân đàn áp dữ dội
như ĐCSĐD, nhất là sau khi họ tổ chức cuộc nổi dậy Yên Bái.
Bạo
lực đàn áp của cộng sản sau này sẽ biến thành một cuộc kháng chiến
lâu dài chống lại Pháp. Nhiều nhân chứng đă nói đến các trại giam tù binh lính
viễn chinh Pháp. Nhiều người bị hành hạ và bị chết trong đó : trong số
20.000, chỉ có 9.000 sống sót khi hiệp định Genève (tháng 7/1954) cho phóng thích họ. Những
bịnh dịch đáng sợ của vùng núi Đông Dương đă làm chết vô số tù
bị ban quản trại Việt Minh cắt thuốc men và vệ sinh, nhiều khi bỏ đói.
Đă có nhiều vụ đánh đập, có cả tra tấn thật sự, nhưng lính Pháp
rất có ích lợi : được xem như là "tội phạm chiến tranh", họ bị
buộc phải tự thú và hối cải, rồi phải suy nghĩ theo những người
giam họ, mục đích là dùng họ để tuyên truyền chống lại phe của chính
họ. Lối "cải tạo" theo kiểu Tàu này (Mao gởi sang hằng loạt cố vấn
từ năm 1950), bằng những buổi tuyên truyền dồn dập, trong đó "học
viên" phải tham gia tích cực, bằng cách gây chia rẽ giữa "phản động" và những
người tù "tiến bộ", bằng lời hứa (kể cả hứa tha), đă thành
công không ít, nhờ sự mệt mỏi thể xác và tinh thần của người bị
giam. Kết quả này cũng là do lính Pháp lúc ấy được đối xử tồi
tệ, nhưng vẫn khá hơn đối với người bản xứ về sau này.
Khi chiến thắng có vẻ đă gần kề, vào tháng 12/1953, cải cách ruộng
đất được tung ra tại các vùng đă giải phóng. Trước cuối năm
1954, nó lan rộng ra toàn lănh thổ ở phía Bắc vĩ tuyến 17, vùng được hiệp
định Genève giao cho VNDCCH ; cải cách ruộng đất chỉ chấm dứt vào năm
1956. Nhịp độ và các mục tiêu của nó giống như cải cách ruộng đất
Trung Quốc từ năm 1946 đến 1952 : để thắt chặt mối quan hệ
giữa đảng tái xuất hiện vào năm 1951 và trung-bần nông, chuẩn bị phát
triển kinh tế bằng cách tăng cường sự kiểm soát của Nhà Nước,
và tiêu diệt các nhóm chống cộng đang thai nghén. Mặc dù hơn cả bên Tàu, giới
thượng lưu nông thôn đă từng v́ tinh thần dân tộc cao độ mà ồ ạt
ủng hộ Việt Minh. Nhưng phương pháp, vừa tàn ác vừa hiếu sát, vẫn
là những thứ đă được sáng chế ra bên nước láng giềng to lớn
phía Bắc : trong mỗi làng, các cán bộ hăng say ra sức "khích" các nông dân được
xếp hạng bần và trung, việc vận động đôi khi gặp khó khăn (có lúc
phải nhờ đoàn hát giúp vào), tiếp theo là phiên ṭa "tố khổ" nạn nhân và bắt
đền tội, thường nạn nhân được chọn lựa một cách vơ đoán
(có ra chỉ tiêu để hoàn thành : 4 đến 5 % dân số cái 5 % muôn thuở của chủ
nghĩa Mao !), và sau cùng là tử h́nh hoặc ít ra cũng tù giam và tịch biên tài sản ; cả
gia tộc phải bị ô nhục lây như bên Trung Quốc. Việc không kể đến
"công lao chính trị" chứng tỏ tính giáo điều tàn nhẫn, đồng thời chứng
tỏ ư muốn áp đặt độc tài của đảng CSVN. Một bà địa chủ
và nhà buôn giàu, có hai con theo Việt Minh từ đầu, từng được tặng danh
hiệu "có công với cách mạng", đă bị "đấu" hai lần, nhưng tá điền
không mấy sốt sắng. Lập tức "một nhóm từng thực tập bên Tàu được
đưa đến, và lật ngược được t́nh thế. [...] người ta
tố bà Long đă giết ba tá điền trước năm 1945, đă ngủ với quan
sứ Tây, đă liếm gót Tây và đă làm gián điệp cho chúng. Mệt lă v́ bị giam lâu
ngày, bà ta thú tội hết và bị kêu án tử h́nh. Con trai bà đang ở Trung Quốc được
triệu về, lột chức, lột huy chương và kêu án hai mươi năm". Cũng
như bên Tàu, bị buộc tội tức là đă phạm tội, đảng không thể
sai lầm. Vậy giữ đúng vai tuồng mà người ta gán cho, là ít tai hại hơn
cả : "Giết cha, giết mẹ rồi thú nhận, vẫn nhẹ tội hơn không phạm
ǵ cả và không thú nhận".
Bạo lực được thúc đẩy và bùng nổ
đến độ kinh hoàng. Tư tưởng "hận thù" đối với địch
giai cấp hay người nước ngoài - được nhai đi nhai lại : theo Lê Đức
Thọ, sau này được giải thưởng ḥa b́nh cùng với Henry Kissinger, th́ "nếu
muốn nông dân cầm súng, trước hết phải khơi dậy nơi họ ḷng căm
thù". Tháng giêng 1956, cơ quan chính thức của đảng, tờ Nhân Dân, viết : "Giai cấp
địa chủ sẽ không bao giờ nằm yên khi nó chưa bị tiêu diệt". Cũng
như ở bên kia biên giới phía Bắc, phương châm là : "Thà giết lầm mười
người vô tội, hơn là để sống sót một kẻ thù". Tra tấn được
dùng rộng răi, điều mà Hồ lo lắng cuối năm 1954 : "Nhiều cán bộ vẫn
c̣n (sic) phạm sai lầm là dùng cực h́nh tra tấn. Đó là một phương pháp dă man
mà bọn đế quốc, tư bản và phong kiến dùng để đàn áp quần chúng
và áp đảo cách mạng [...] Trong giai đoạn hiện nay (lại sic) triệt để
cấm dùng cực h́nh tra tấn".
Nét độc đáo so với kiểu mẫu Tàu là
: đi kèm với việc "sửa sai" xă hội tức cải cách ruộng đất, có việc
cải cách đảng (bên Tàu th́ trễ hơn) ; ảnh hưởng của đảng viên
thuộc thành phần thượng lưu trong đảng có thể giải thích việc nầy.
ở đây cũng vậy, người ta nói rằng có 5 % là phần tử Việt Nam Quốc
Dân Đảng len lỏi vào đảng ; do nhớ lại những cuộc thanh trừng ở
Quảng Tây, người ta săn đuổi những bóng ma "phản cách mạng CB" (CB : chống
bôn sê vích). Cơn điên loạn vượt khỏi mọi giới hạn : nhiều anh hùng
của chiến tranh Đông Dương bị ám sát hoặc tống giam. Vết chấn thương
tinh thần thật kinh khủng, và trong ngôn ngữ của người cộng sản Việt
Nam, "1956" (năm cao điểm của chỉnh huấn), đến nay vẫn c̣n gợi lên
sự sợ hăi tột cùng. "Một bí thư đảng ủy ngả gục dưới
lằn đạn của đội hành quyết đă hô to : "Đảng cộng sản Đông
Dương muôn năm" ! V́ không hiểu nổi điều ǵ đă xảy đến cho ḿnh,
ông ta chết mà nghĩ rằng ḿnh bị bọn phát xít giết. Số tổn thất nhân
mạng rất khó ước lượng, dù sao cũng là rất lớn : có lẽ khoảng
50.000 vụ hành quyết ở nông thôn (không kể chết trận), tức khoảng 0,3 hoặc
0,4 % dân số (rất gần với tỉ lệ trung b́nh nạn nhân của cải cách ruộng
đất Trung Quốc) ; khoảng từ 50.000 đến 100.000 người bị tống
giam ; có đến 86 % được thanh lọc trong các tổ đảng ở nông thôn, trong
số cán bộ kháng chiến chống Pháp có tới 95 % bị khai trừ. Vào tháng Bảy 1956,
người trách nhiệm cuộc thanh trừng nh́n nhận là đă có "sai lầm". Theo ông ta
th́ : "Ban chỉ đạo chỉnh huấn đánh giá lệch lạc tổ chức của
đảng, đă ước lượng rằng tất cả các tổ đảng nông thôn,
nhất là vùng mới giải phóng, đều bị địch nắm hoặc len lỏi
vào, rằng ngay cả cơ quan lănh đạo quận huyện và tỉnh cũng rơi vào
tay giai cấp địa chủ và bọn phản cách mạng". ở đây ta thấy một
thứ tranh phác họa trước việc : Khờ-me lên án toàn bộ "dân mới". (Chú thích
của người dịch : "dân mới" là tất cả những ai không vô rừng với
Khờ-me đỏ từ đầu).
Trước tất cả mọi nơi khác,
từ năm 1951, quân đội đă tổ chức chỉnh huấn trong hàng ngũ của
ḿnh, chỉnh về mặt ư thức hệ hơn là đàn áp thể xác. Từ năm 1952 đến
năm 1956, sửa sai trở nên gần như thường xuyên. Các buổi hội thảo
căng thẳng đến nỗi phải tịch thu dao và lưỡi dao cạo, bật đèn
sáng suốt đêm để ngăn ngừa tự tử. Thế nhưng chính quân đội
sẽ chấm dứt thanh trừng đầu tiên. Các cấp chỉ huy bị khủng bố
đến nỗi khá nhiều người phản ứng bằng cách bỏ trốn qua miền
Nam Việt Nam, khiến cho quân đội lo bị suy yếu, trong khi nó có nhiệm vụ thống
nhất xứ sở. So với Trung Quốc th́ những nhu cầu quân sự của Việt
Nam làm nảy sinh một đầu óc thực tiễn nào đó, và v́ đất không rộng
nên khiến cho kẻ bất măn dễ trốn đi : những điều đó làm cho bạo
lực vơ đoán có phần nào bớt đi. Số phận của người công giáo miền
Bắc (1,5 triệu người, khoảng 10 % dân số) cũng chứng minh điều này
: bị bức hại từ đầu, nhưng rất có tổ chức, họ lợi dụng
con đường thoát thân của sự ra đi ồ ạt, dưới sự bảo vệ
của những đơn vị Pháp cuối cùng ; ít nhất 600.000 người đă vô Nam.
Người ta cũng bắt đầu cảm thấy tác dụng của Đại
Hội XX đảng cộng sản Liên Xô (tháng Hai), và Việt Nam sẽ được dè
dặt nếm mùi "Trăm Hoa" ngay từ tháng Tư 1956. Vào tháng Chín tập san Nhân Văn được
phát hành, tiêu biểu cho khát vọng tự do của giới trí thức. Nhiều nhà văn dám
chế diễu văn của Tố Hữu, nhân viên kiểm duyệt chính thức của chế
độ và cũng là tác giả bài thơ dưới đây :
Hoan hô Sít-ta-lin Đời
đời cây đại thọ Rợp bóng mát ḥa b́nh Đứng đầu sóng ngọn gió
!
Hoan hô Hồ Chí Minh Cây hải đăng mặt biển Băo táp chẳng rung rinh Lửa
trường kỳ kháng chiến, |
|
|
 |
 |
|
 |
|
Copyright @ 2005 nghiencuulichsu.All Rights Reserved.
|
|
|
 |